Bối cảnh Luật_chống_ly_khai

Đài Loan được chính thức sáp nhập vào nhà Thanh năm 1683. Trong hiệp ước Shimonoseki năm 1895, Trung Quốc đã nhượng lại vĩnh viễn Đài Loan cho Nhật Bản. Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản đã bỏ lại Đài Loan cho chính quyền Quốc Dân Đảng của Trung Hoa Dân Quốc năm 1945. Năm 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố thành lập, Đài Loan và đảo phụ cận tiếp tục do Trung Hoa Dân Quốc quản lý. Theo quan điểm chính thức của mình, chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) coi Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc. CHNDTH tự coi mình là chính thể hợp pháp duy nhất của Trung Quốc và do đó cũng có chủ quyền đối với Đài Loan. Theo lập luận của CHNDTH, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc đã không còn đại diện cho chủ quyền của Trung Quốc khi nó đánh mất quyền kiểm soát Trung Quốc Đại lục vào giữa những năm 1949-1950. Tuy vậy, trên thực tế, Đài Loan vẫn thuộc quyền quản lý của Trung Hoa Dân Quốc (THDQ).

Quan điểm chính thức của THDQ là nó đã không chấm dứt sự tồn tại vào nằm 1949 và vẫn tiếp tục đóng vai trò một thực thể chính trị có chủ quyền ở Đài Loan cho đến bây giờ, khiến cho mối quan hệ của THDQ và CHNDTH giống như hai quốc gia bị chia cắt (như Triều TiênHàn Quốc). Lập trường của CHNDTH được công nhận bởi hầu hết các nước khác bằng việc thông qua "Chính sách Một Trung Quốc" tuy vậy, họ muốn tiếp cận một cách mơ hồ với vấn đề này bằng cách giao thiệp với cả hai phía THDQ và CHNDTH.

Sau khi luật chống ly khai của CHNDTH được công bố, Đài Loan đã có các phản đối mạnh mẽ. Có thể một phần do những kinh nghiệm của các vùng tự trị khác trong đại lục khiến họ không có niềm tin vào khoản 5 đạo luật này.